Với 74 tuổi đời, Lệ Tân đã sống ở Trung Quốc 6 năm, học phổ thông ở Việt Nam
10 năm trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp, học đại học và làm việc ở Ba Lan 12
năm chứng kiến sự kiện Poznan 1956 và cuộc di cư của những người gốc Do Thái,
rồi sinh sống và thành đạt ở Na Uy suốt 46 năm nay! Chị học và làm nghề kiến
trúc, có sở thích sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật, đã từng hỗ trợ cho họa sỹ Bùi
Nguyên Trường ở Việt Nam thành danh... Và nay, nhà văn Đỗ Chu – Giải thưởng Hồ
Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2012, gọi chị là “đồng nghiệp”.
Bìa cuốn sách
" Một mình trên đường" |
Tôi được mời dự buổi giới thiệu hai cuốn sách của một người Việt ở xa
Việt Nam từ gần 60 năm nay. Sách được viết bằng hai thứ tiếng, bản tiếng
Ba Lan là “Sama na drodze” và “Na rozdrozu” do Nhà xuất bản Swiat
Książki ấn hành năm 2012 và xếp vào thể loại powieść autobiograficzna –
tiểu thuyết tự truyện, bản tiếng Việt là “Một mình trên đường” và “Ngã
ba đường” do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2013 và giới thiệu là những
cuốn “tiểu thuyết về cuộc đời đầy thách thức” của Lệ Tân Sitek.
Tôi “biết” chị Lệ Tân từ năm 1967, khi chúng tôi là những lưu học sinh
năm đầu tiên tại Ba Lan. Hồi đó, chúng tôi được thông báo vừa chính thức
qua cán bộ Đại sứ quán, vừa không chính thức qua câu chuyện của những
lưu học sinh lớp trước, về trường hợp vi phạm kỷ luật rất nghiêm trọng
của chị để tránh một gương xấu.
Những năm đó, cuộc chiến tranh chống Mỹ đang bước vào giai đoạn khốc liệt, các
nước xã hội chủ nghĩa nhận lưu học sinh ta sang đào tạo để sau khi học xong trở
về Việt Nam làm việc; bất cứ ai ở lại cũng bị coi là lưu vong và bị cắt đứt mọi
liên hệ! |
Chị Lệ Tân đã lấy chồng là người Ba Lan và không về nước khi tốt nghiệp đại học.
Đầu những năm 1980, sau khi có sự công nhận chính thức cuộc hôn nhân của một nữ
sinh Việt Nam và một giáo viên Liên Xô thì nhận xét về những hoàn cảnh tương tự
ở các nước xã hội chủ nghĩa không còn nặng nề như trước nữa. Nhưng tôi vẫn bị
câu chuyện của chị ám ảnh vì, cũng với lý do tương tự một bạn học cùng khóa cùng
trường và ở cùng phòng trong ký túc xá với tôi, sang Ba Lan sau chị 12 năm, đã
buộc phải về nước hè năm 1973 mà không được bảo vệ luận án tốt nghiệp.
Chị Lệ Tân biết tôi từ năm 2000. Năm đó, chị gửi email thận trọng hỏi tạp chí
Quê Hương về khả năng xin cấp lại hộ chiếu Việt Nam cho chị sau 40 năm... không
được nhìn nhận như một công dân Việt Nam. Tôi đã viết email trả lời bằng tiếng
Ba Lan. Từ đó chúng tôi thường xuyên liên lạc với nhau, một phần do công việc
của tôi là làm báo phục vụ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, một phần do ấn
tượng về câu chuyện của chị mà tôi vẫn giữ từ năm 1967. Vấn đề quốc tịch của chị
được xem xét trong gần 5 năm mà phần kết – như chúng ta vẫn thường nói – rất có
hậu. Cuối năm 2004 chị gửi email cho tôi biết Đại sứ quán ta tại Đan Mạch kiêm
nhiệm Na Uy đã cấp hộ chiếu Việt Nam cho Lệ Tân Sitek.
Bùi Lý Lệ Tân là con gái đầu lòng của ông Bùi Hải Thiệu và bà Hoàng Lệ Minh,
những nhà cách mạng lão thành do chính lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tuyển lựa, đặt bí
danh mang họ Lý – ông Lý Quốc Lương và bà Lý Phương Thuận, đào tạo tại Trung
Quốc và Thái Lan, rồi giao nhiệm vụ hoạt động tại Trung Quốc trong những năm 30
và 40 của thế kỷ trước. Chị thuộc thế hệ người Việt Nam sinh ra ở Trung Quốc.
Năm 1945, sau khi ông Bùi Hải Thiệu qua đời, bà Hoàng Lệ Minh đưa ba con gái về
Việt Nam, tham gia xây dựng chính quyền mới và kháng chiến chống xâm lược. Lệ Tân
được đưa về quê ở Nam Đàn, Nghệ An để thăm bà nội, bị kẹt đường khi kháng chiến
bùng nổ, rồi được bà nội nuôi dưỡng và học hết bậc phổ thông. Năm 1955, chị là
một trong những lưu học sinh đầu tiên được nhà nước đưa sang Ba Lan học đại học.
Chị kết hôn với một nhà kinh tế hàng hải người Ba Lan và từ năm 1967 gia đình
chị định cư tại Na Uy. Theo tập quán ở châu Âu, chị lấy họ chồng và đổi tên
thành Sitek Lệ Tân Bùi Lý. Với 74 tuổi đời, chị đã sống ở Trung Quốc 6 năm, học
phổ thông ở Việt Nam 10 năm trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp, học đại học và
làm việc ở Ba Lan 12 năm chứng kiến sự kiện Poznan 1956 và cuộc di cư của những
người gốc Do Thái, rồi sinh sống và thành đạt ở Na Uy suốt 46 năm nay! Chị học
và làm nghề kiến trúc, có sở thích sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật, đã từng hỗ
trợ cho họa sỹ Bùi Nguyên Trường ở Việt Nam thành danh... Và nay, nhà văn Đỗ Chu –
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2012, gọi chị là “đồng nghiệp”.
Chị nói tiếng Việt tốt nhưng chưa hẳn đã bình thường như phần lớn người Việt Nam
sống ở trong nước, còn viết sách bằng tiếng Việt thì mãi tới khi đến tuổi “cổ
lai hy” chị mới bắt đầu. Sống xa quê hương và do ở lại nước ngoài trong hoàn
cảnh bị chối bỏ, chị không có cơ hội tiếp xúc với người Việt, nhưng với quyết
tâm “giữ bằng được tiếng mẹ đẻ”, chị đọc đi đọc lại những cuốn sách tiếng Việt
hiếm hoi còn giữ được bên mình, suy ngẫm trên những bài thơ tiếng Việt đã từng
viết và đọc, ngâm nga các ca khúc học được trong thời kháng chiến chống Pháp...
Tiếng Việt của chị trong “Một mình trên đường” rất giản dị, chân phương, dễ hiểu.
Chị ghi lại theo thời gian, theo những sự kiện trong cuộc đời và suy nghĩ của
một cô bé những năm hình thành tính cách thiếu nữ, tuy sống giữa tình yêu của
gia đình bên nội nhưng mẹ lại ở xa, còn với người cha thân yêu thì chỉ có thể
tâm tình qua những vì sao. Chắc chị không ngờ 10 năm ở quê cha, trong đó có tới
9 năm chiến tranh, lúc nào cũng cảm thấy có “một mình” lại là thời gian duy nhất
chị sống ở Việt Nam. Khi viết cuốn sách thứ hai với tên gọi “Ngã ba đường”, theo
nhà văn Đỗ Chu, tiếng Việt của chị đã là tiếng Việt văn chương và, dù xuất hiện
muộn chị vẫn sớm thành danh trên văn đàn. Quyết định ở lại nước ngoài vào những
năm 60 của thế kỷ trước đã đặt chị vào tình thế không biết khi nào mới được trở
lại quê hương với tư cách là một công dân Việt Nam. Tuy vậy “còn tiếng Việt thì
còn người Việt”. Chị giữ được tiếng Việt nên chị vẫn là người Việt. Chị vẫn nặng
lòng với Đất Việt. Phát biểu trên đài TOKFM của Ba Lan ngày 29/08/2012 nhân dịp
giới thiệu cuốn sách “Na rozdrozu”, chị khẳng định với sự xúc động sâu sắc:
“Việt Nam đã, đang và mãi mãi là Tổ quốc thân yêu của tôi!”.
Năm 2009, khi tặng tôi cuốn “Một mình trên đường” do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn
hành, chị đề nghị tôi tìm giúp một người dịch sang tiếng Ba Lan. Tôi nhận lời,
nhưng vẫn khuyến khích chị tự dịch sách. Sau một thời gian liên hệ với những
người có khả năng và điều kiện dịch sách từ tiếng Việt sang tiếng Ba Lan, tôi
gửi email thông báo họ tên và địa chỉ của người có thể giúp chị dịch sách với
vỏn vẹn mấy chữ “Lệ Tân Sitek” và địa chỉ email của chị. Hai năm sau, tôi nhận
được “Sama na drodze” với lời đề tặng của chị ghi đó là “blizniak”, nghĩa là anh
chị em sinh đôi của “Một mình trên đường”. Tôi xem và thở phào nhẹ nhõm. Tôi đã
đúng khi “giới thiệu” người dịch cho chị. Hai cuốn sách đúng là anh chị em sinh
đôi. Tiếng Ba Lan trong “Sama na drodze” cũng giản dị, chân phương, dễ hiểu như
tiếng Việt trong “Một mình trên đường”. Và tình cảm chị dành cho đất nước Ba Lan
cũng không kém sâu đậm, như chị phát biểu trên đài TOKFM: “Trái tim tôi đặt ở Ba
Lan”. Đọc bản tiếng Ba Lan, tôi thấy bên cạnh phần “dịch” còn có cả phần “viết”
của chị. Hội Nhà văn Ba Lan không nhầm khi mời chị làm hội viên. Nhiều khi tôi
đọc song song bản tiếng Việt và bản tiếng Ba Lan, từng đoạn, từng trang. Và tôi,
một người có nhiều năm kiếm sống bằng nghề biên-phiên dịch, đã học được rất
nhiều từ cách dịch, cách viết của chị. Có một điều chắc chắn là nếu tôi có dịch
“Một mình trên đường” thành “Sama na drodze” thì không bao giờ đạt hiệu quả văn
chương như bản dịch của chị. Bản “Sama na drodze” của chị còn thực hiện vai trò
của một “sứ giả” giới thiệu với bạn đọc Ba Lan cuộc sống thực của người Việt Nam.
Cho dù đó là cuộc sống của những người nông dân ở vùng tự do trong cuộc kháng
chiến chống Pháp, nhưng phần cốt lõi nhất của cuộc sống Việt hình thành từ nghìn
đời và hiện nay vẫn còn nguyên trong tư duy và cách sống của người Việt đã góp
phần làm nên văn hóa Việt Nam. Tôi khuyên những người bạn Ba Lan đang làm việc ở
Việt Nam và với Việt Nam rằng họ nên đọc các cuốn sách của chị để hiểu hơn con
người Việt Nam. Có hiểu nhau thì hợp tác mới có hiệu quả. Cũng nên biết rằng,
khi viết “Na rozdrozu” – “Ngã ba đường”, chị đã làm theo quy trình khác, viết
bản tiếng Ba Lan rồi mới viết bản tiếng Việt. Và, chị phát biểu trong buổi giới
thiệu sách ở thủ đô Warszawa: dịch từ tiếng Ba Lan sang tiếng Việt khó hơn. Chị
ở châu Âu gần như cả cuộc đời, lại là những năm trưởng thành, xây dựng cuộc sống,
làm nên sự nghiệp, với ba thế hệ trong gia đình, chắc chị phải tư duy theo cách
của người châu Âu với những ngôn ngữ thuộc hệ đa âm chứ không đơn âm như tiếng
Việt.
Chúng ta có thể hình dung thấy sự vất vả của chị khi “một mình” giữ linh
hồn của tiếng Việt và thêm trân trọng những cố gắng của chị trong việc “giữ bằng
được tiếng mẹ đẻ”.
Đến dự buổi giới thiệu sách của chị ở Hà Nội có rất nhiều người thuộc
mọi lứa tuổi. Tôi thấy lão họa sỹ Phan Kế An, tác giả của “Nhớ một chiều
Tây Bắc”, và nhiều vị cao niên khác ngồi cạnh các bạn tuổi đôi mươi chăm
chú nghe nhà văn Phạm Xuân Nguyên giới thiệu hoàn cảnh ra đời của hai
cuốn sách còn rất mới và nữ tác giả tóc bạc U80. Rất nhiều người phát
biểu ý kiến làm phong phú thêm hiểu biết về một thời đã qua nhưng không
bao giờ cũ có liên quan đến cuộc sống của người Việt chúng ta mà hai
cuốn sách lấy làm bối cảnh.
Một thanh niên viết email cho tôi chia sẻ: “Cháu thực sự ngạc nhiên vì
sức sống của cô Lệ Tân. Ánh mắt của cô ấy như một người mới đôi mươi!”
Bởi nặng tình với đất tổ nên mỗi lần về quê là một lần chị cảm thấy trẻ
lại. |
Bìa cuốn sách
" Ngã ba đường" |
Giáo sư Chương Thâu khẳng định, hai cuốn sách của Lệ Tân Sitek cung cấp nhiều tư
liệu quý cho công trình nghiên cứu của ông và đồng sự về một thời kỳ lịch sử
quan trọng của đất nước. Tôi cứ mong hai cuốn sách được chuyển thể kịch bản và
dựng thành tác phẩm điện ảnh thì chúng ta, những người Việt Nam đang sống ở
trong nước cũng như những người Việt Nam đang sống ở nước ngoài, sẽ có thêm tư
liệu lịch sử sinh động về cuộc sống của chính chúng ta, làm tài sản để lại cho
các thế hệ mai sau.
Nguồn:
Phương Linh
/ Quehuongonline
|